Khi đọc sử cũ đến đoạn này Vua Tự Đức đã phê vào cuốn sử “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” do sử quan triều Nguyễn soạn rằng: “Đem so sánh với việc phong thưởng đại phu đất Mặc, mổ bụng đại phu đất A, thì Trần Nhân Tông xử trí việc này có phần hơn nhiều”.
Điển tích Vua Tự Đức nhắc đến là chuyện ở thời Chiến quốc bên Trung Quốc, nước Tề có hai quan đại phu, một là Tống Thượng Hiền, đại phu ở đất Tức Mặc (nay thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) và một là Mao Thức, đại phu ở đất A (tức huyện Chúc A, ở phía Đông Bắc tỉnh Sơn Đông). Tống Thượng Hiền thường bị những người hầu cận Uy vương nước Tề gièm pha. Tề Uy vương cho dò xét thì đất Tức Mặc ruộng đất được mở mang, nhân dân được no ấm. Uy vương xét thấy như thế là Thượng Hiền không chịu mua chuộc những người hầu cận nên bị gièm pha, liền phong cho ông này một vạn nhà để ăn lộc. Còn Mao Thức thường được những người hầu cận vua khen ngợi, Uy vương cũng cho dò xét, thì thấy đất Chúc A ruộng đất bỏ hoang, nhân dân nghèo đói. Uy vương xét thấy như thế là vì Mao Thức đút lót người hầu cận để mua lấy tiếng khen, liền bắt mổ bụng Mao Thức và người nào trước kia đã tán dương Mao Thức. Vua Tự Đức khen Vua Trần Nhân Tông xử trí với Phí Mãnh còn hơn cả Tề Uy vương.
Vua Trần Anh Tông cũng rất chặt chẽ trong việc phong quan tước. Ngoài câu nói nổi tiếng “Sao lại có một nước bé bằng bàn tay mà phong quan tước nhiều như thế" khi nói với con mình là Trần Minh Tông, ông còn để lại câu chuyện về việc sử dụng những bề tôi cũ từ nơi tiềm để (phủ của vua khi còn là hoàng thái tử) là Nguyễn Sĩ Cố và Chu Bộ, dù họ hết lòng phục vụ, nhưng do vua thấy họ không có hạnh kiểm nên chỉ dùng vào chức nhàn tản mà thôi.
Khi đã nhường ngôi cho Trần Minh Tông, lên làm thượng hoàng, ngài thường nhắc nhở vua con và bề tôi rằng: "Ông vua dùng người, không phải có thiên vị với ai đâu. Nếu ta thực là người hiền thì những người mình dùng được cũng hiền; ấy như Nghiêu, Thuấn với Tắc, Tiết, Quỳ, Long đấy. Nếu như không phải là người hiền thì những người mình dùng cũng không phải là hiền; ấy như Kiệt, Trụ với Phi Liêm, Ác Lai đấy. Đó là cái lẽ thanh ứng khí cầu, loài nào đi thứ ấy, chứ có thiên vị ai được đâu".
Khi tuổi già, Thượng hoàng Trần Anh Tông lại càng cẩn thận về hình phạt. Có một lần, người quan nô là Hoàng Hộc kiện nhau với người khác, Hoàng Hộc dùng cách xảo trá được thoát tội. Thượng hoàng biết chuyện, trách viên quan xử kiện rằng: "Tên Hộc là đứa gian ngoan kiệt hiệt như thế, mà không biết tra xét cho ra tình ra lý là không làm hết chức phận".
Vua Trần Minh Tông cũng từng nghiêm khắc với cả Hành khiển Trương Hán Siêu, người có danh vọng và địa vị quan trọng trong triều đình. Khi đó vị Hành khiển tâu về việc hình quan là Phạm Ngộ và Lê Duy ăn của đút lót. Nhà vua liền sai người xét hỏi, Hán Siêu nói riêng với người khác rằng: "Hán Siêu này đãi tội trong chính phủ, thấy chúa thượng tin yêu nên mới nói, biết đâu lại có xét hỏi như thế?". Nhà vua nghe được câu ấy, nói rằng: "Hành khiển là quan ở sảnh, Thẩm hình là quan ở viện, đều là những người mà ta tin dùng, có lẽ nào ta tin sảnh quan mà nghi viện quan bao giờ?". Đến khi xét hỏi, Hán Siêu đuối lý, phải phạt tiền 300 quan. Còn Phạm Ngộ, sau đó được bổ lên chức Tham tri chính sự đồng tri thượng thư Tả ty sự, chức vị ngang với Hán Siêu. Điều này cho thấy Vua Minh Tông dùng người rất công bằng, vì Phạm Ngộ tuy học vấn không bằng Hán Siêu nhưng làm quan thanh liêm cẩn thận, được tiếng khen ở thời đó.
Thời Lê, Vua Lê Thái Tổ không chỉ muốn các đại thần là người thừa hành các mệnh lệnh của nhà vua, mà còn muốn họ nhiều hơn thế trong sắc dụ cho các đại thần và chức hành khiển: "Hễ thấy có điều lệ và mệnh lệnh của trẫm có gì bất tiện cho quân đội và nước nhà hoặc bắt làm những việc sai dịch không cần thiết, hoặc đánh thuế nặng, sưu cao thì nên tâu trình ngay để sửa chữa".
Vua Lê Thái Tông từng không bằng lòng khi thấy quân dân thưa kiện vượt bậc lên tận nhà vua nên hạ chiếu rằng: "Đường lối trị dân cốt làm cho không phải dùng đến hình phạt. Gần đây, thấy quân dân thường hay vượt bậc kêu thưa kiện cáo, làm phải bắt bớ liên lụy đến nhiều người, trẫm chán lắm. Vậy, từ nay, phàm vụ kiện tụng nào là việc trọng đại thì mới cho phép tâu thẳng lên triều đình, còn những việc kiện nhỏ trước phải thưa ở xã quan xét xử rồi mới lên huyện; huyện không xử xong, bấy giờ mới lên lộ, lên phủ, lên đạo, cứ theo bậc mà làm. Việc ruộng đất cũng vậy".
Những ý nhà vua bày tỏ trong sắc dụ trăm quan trong kinh, ngoài lộ phải tu tỉnh, chăm lo làm tròn chức vụ, cho thấy rõ ý nghĩa của “đạo làm vua” chăm dân như con: "Gần nay ít kẻ biết giữ phép công, tuân theo pháp luật: Người giữ tiền bạc, để bê trễ đọng lại, cố ý làm khó khăn; kẻ coi quân đội, không thương xót binh lính. Còn cai trị dân thì không lo chăn dắt nuôi dạy, chỉ buông tha cho bọn giàu có, riêng trút sai dịch vào hạng bần cùng; xử kiện thì không giữ công bằng, chỉ nghĩ đến bè đảng và ăn hối lộ; làm việc thì không cần mẫn, chỉ chè chén và tiệc tùng. Những kẻ canh giữ quan ải, không nghĩ đến việc kiểm tra xét hỏi, chỉ mưu tính buôn bán để làm giàu”.
Do đó, nhà vua nhắc bề tôi rằng: "Các người cùng hưởng lộc trời, chăn dân của trời, thế mà làm việc như vậy há chẳng trái nghịch với trời sao? Từ nay các ngươi nếu biết sửa đổi lỗi trước, noi theo đường thiện, hết lòng trung ái, thương yêu quân và dân, hòa thuận giữa bạn đồng liêu, công bằng xét xử việc hình ngục và kiện tụng, khuyến khích canh nông và tằm tang, dẹp yên trộm cướp, trao dồi đức hiển vinh, con cháu sẽ được hưởng phúc. Nếu không thế thì nhà nước đã có pháp luật đây".
Vị vua hiền Lê Thánh Tông để lại nhiều thành tựu trong văn trị, võ công. Trong việc sử dụng người hiền tài, nhà vua từng nói rằng: "Trong triều đình, nếu quân tử được tiến dụng, là gốc rễ tiến lên đời thịnh trị, nếu tiểu nhân tiến dụng, là đường ngõ bước vào đời loạn lạc, trẫm cùng các khanh phải khuyến miễn nhau luôn luôn, để mong đưa nước nhà đến đời thịnh trị".
Theo lời Vua Lê Thánh Tông thì nếu thấy việc gì phải nói hết lời với vua, mới là trung thành với vua và yêu nước. Đó là lời nhà vua dụ bảo quần thần rằng: "Bọn Lê Cảnh Huy, Nguyễn Như Đổ và Phạm Du đều là phường a dua nịnh hót, cốt sao làm đẹp lòng người ta, đến khi bàn luận công việc triều đình thì chúng khóa miệng thin thít chẳng nói câu gì; chỉ có bọn Nguyễn Mậu, Trần Thốc và Nguyễn Thiện là những người trung thành với vua và yêu nước, gặp việc gì họ cũng nói hết lời. Hôm trước đây, Nguyễn Mậu nói việc không được đúng sự thật, mà trẫm không buộc vào pháp luật, là có ý để báo đáp lại Nguyễn Mậu hay tâu bày những lời phải trái".
Nhà vua cũng dụ bảo riêng Nguyễn Mậu rằng: "Nhà ngươi luôn luôn hết lòng với nước, việc gì tốt thì nói là công của vua, tuy nhà ngươi không theo kịp được họ Phòng, họ Đỗ (Phòng Huyền Linh và Đỗ Như Hối, hai danh nhân dưới triều Thái Tông nhà Đường), nhưng xử trí việc khó khăn, trấn trị nơi bận rộn như Đái Trụ (Dân bộ thượng thư dưới triều Đường Thái Tông, nổi tiếng là một người minh mẫn, quả quyết), tâu bày tường tận như Nghiện Bác (hiền thần đời Tống, thờ 4 triều vua, ở triều đình giữ chức tướng văn, ra ngoài biên cương giữ chức tướng võ, danh tiếng lừng lẫy cả lân bang), thì nhà ngươi so với hai người kia cũng không hổ thẹn gì. Vậy, ban cho bạc lạng để khen thưởng khuyến miễn. Nhà ngươi càng phải mài giũa đức tính hơn nữa, làm thế nào kỳ vọng cho ta tiến lên đời thịnh trị. Đối với trẫm nếu có điều gì lầm lỗi, nhà ngươi cứ nói thẳng, không nên giấu giếm".
Không chỉ căn dặn các quan việc sửa mình, nói thẳng, biết tiến cử người hiền, các vị vua nước Việt xưa cũng dạy bề tôi cần giữ niềm thân ái với đồng liêu. Đó là khi sau khi đánh thắng quân Nguyên lần thứ 3, Vua Trần Nhân Tông rước Thượng hoàng Trần Thánh Tông về cung điện. Khi ban lệnh đại xá, Hành khiển Lê Tòng Giáo là hoạn quan lại không hòa hợp với Hàn Lâm phụng chỉ là Đinh Củng Viên nên Đinh Củng Viên cố ý không đưa bản thảo trước, gây khó khăn cho Tòng Giáo lúc tuyên đọc chiếu chỉ. Nhìn thấy cảnh ấy, sau lễ tuyên chiếu, nhà vua đã cho triệu Tòng Giáo đến bảo rằng: "Củng Viên là văn quan, nhà ngươi là trung quan, có việc gì mà không hòa hợp với nhau đến thế! Nhà ngươi làm lưu thủ ở Thiên Trường, rươi có, quít có, đi lại tặng biếu cho nhau thì có hại gì?". Nghe lời vua, từ bấy giờ Tòng Giáo với Củng Viên tình giao kết với nhau trở nên thân mật.
Đọc sử đến chỗ này, Vua Tự Đức đã ghi mấy chữ phê, nhận xét về Vua Trần Nhân Tông rằng: “Ông vua này có thể gọi là "thiên tử hòa giải"!”.
Nguồn CAND